Đi nông trường và ngộ đạo

Lữ Giang

(Phần II)

Trong phần đầu của tập bút ký “Gặp Chúa trong tù cải tạo” đăng trên website tinlanhhyvong.com, Tướng Nguyễn Hữu Có đã cho chúng ta thấy thêm một số bí ẩn đàng sau cuộc thanh toán nhau giữa các vai chủ chốt trong cuộc đảo chánh năm 1963 để mở đường cho hai nhân vật được Mỹ chọn lên cầm quyền, đó là hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm. Tuy nhiên, Tướng Có đã không nói gì đến hai biến cố quan trọng trong đời ông đã đưa ông đi lên và đi xuống, đó là chuyện ông tham gia cuộc đảo chánh 1963 và chính phủ Vũ Văn Mẫu trong những ngày cuối cùng của VNCH.

Giáo sư Bùi Tường Huân, Phó Thủ Tướng của chính phủ Vũ Văn Mẫu, kể cho tôi nghe rằng hôm 29.4.1975, anh em định cử Trung Tướng Nguyễn Hữu Có làm Tổng Trưởng Quốc Phòng, nhưng Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu nói trước đây Phật giáo đã lên án “Thiệu, Kỳ, Có” là ba thành phần đàn áp Phật giáo, nay nếu để Tướng Có làm Tổng Trưởng Quốc Phòng, họ sẽ phản đối. “Ông đề nghị tôi làm Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, còn Tướng Có làm Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng.” Mọi người đều đồng ý.

Trong suốt chiều 29 và sáng 30.4.1975, Tướng Có là người liên lạc với các đơn vị quân đội và báo cáo tình hình. Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh chỉ được Tướng Dương Văn Minh gọi vào trong những giờ cuối để tuyên bố đầu hàng mà thôi.

Tướng Có cũng là người ngồi cạnh Tướng Minh trong suốt đêm 29 và rạng ngày 30.4.1975 để đợi Thích Trí Quang đưa người “phía bên kia” vào nói chuyện, cuối cùng Tướng Minh bị Thích Trí Quang cho leo cây. Chuyện này đã được Tướng Có kể lại cho một số anh em trong trại nghe và tôi đã tường thuật lại.

Trong Phần II dưới đây Tướng Có tường thuật chuyện ông và một số tù nhân khác đang bị giam đã bị Bộ Nội Vụ lừa, đưa vào Thanh Hoá để lập nông trường quy tụ các tù nhân chính trị và xin viện trợ ngoại quốc. Khi viện trợ bị từ chối, ông bị trả về lại trại Hà Tây. Phần chính, ông nói về sự ngộ đạo của ông.

GẶP CHÚA TRONG TÙ CẢI TẠO

Tác giả: Trung Tướng Nguyễn Hữu Có

(Phần II)

Tôi nhìn biết Đức Chúa Trời

Mùa hè 1977, tôi và ban tướng lãnh (31 người) đang ở trại 5 Yên Bái. Chúng tôi từ trại Quang Trung đã được chuyển ra đây bằng phi cơ từ mùa hè trước (1976). Ở đây chúng tôi phải lao động nặng nhọc. Mỗi tuần trừ những người đau yếu, chúng tôi phải lên núi đốn củi đem về đun. Hôm ấy trời nóng bức oi ả. Sau khi đốn xong 1 vác củi đúng chỉ tiêu (khoảng 25 Kg), tôi ngồi nghỉ mệt trên đồi dưới bóng mát, chờ anh em đốn xong để được lính canh đưa về trại một lượt. Tôi nhìn xem cảnh vật chung quanh. Trên cành cây có chim đang nhảy nhót. Từng đàn bướm lượn quanh khoe cánh với đủ màu sắc sặc sỡ. Trên trời từng đàn mây trắng bay với nền trời xanh trong trẻo. Các chú chuồn chuồn bay chập chờn như những chiếc trực thăng cực nhỏ. Bất giác tôi tự hỏi ai tạo ra vạn vật trong thiên nhiên. Chẳng lẽ mọi vật tự nó có và vũ trụ đặt ra qui luật phát triển và tồn tại ư? Từ suy nghĩ đó, tôi nhìn lên trời cao và nghỉ đến một Đấng mà thế gian gọi là Ông Trời hay là Thượng Đế. Tôi nghĩ phải có đấng tạo hoá dựng nên thế gian và mọi loài vạn vật. Với ý nghĩ đó tôi so sánh ông Trời với ông Phật. Người ta thường nói Trời mưa, Trời nắng, Trời gió, Trời lạnh, v.v. Còn ông Phật thì không được gọi như thế. Sau chuyến đi lấy củi hôm ấy, tôi có một nhận thức mới. Đó là điểm khởi đầu nhìn biết Đức Chúa Trời. Từ đấy tôi nhìn và lối suy nghĩ khác hẳn trước. Đối với hoạn nạn tôi đã trải qua tôi không qui cho số phận may rủi nữa. Tôi nghĩ rằng Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên tôi ắt có quyền trên đời sống tôi. Mọi việc xảy ra trong đời tôi đều do ơn Ngài quyết định.

Chúa làm phép lạ trong gia đình tôi

Ngài cứu con trai tôi

Gia đình tôi có 12 người con, 4 trai, 8 gái. Chúng tôi rất khổ tâm khi có đứa con trai hư đốn nghiện ngập xì ke. Đó là đứa con trai thứ nhì Nguyễn Hữu Trung, sinh năm 1955. Trung đã nghiện ngập xì ke trước ngày mất miền Nam. Sau năm 1975, gia đình túng thiếu, cuộc sống chật vật, nhưng Trung vẫn tìm mọi cách moi tiền đi hút. Gia đình có gởi Trung vào Trường Phục Hồi nhân phẩm cải tạo xì ke, ma tuý, và gái điếm) ở Bình Triệu. Được một thời gian, trường cho về nhà nhưng Trung vẫn không bỏ được xì ke. Đến tháng 08-1979, Trung bị nghiện nặng bỏ nhà ra đi một thời gian. Vì thiếu tiền, thiếu thuốc, Trung bị cơn nghiền dày vò hành hạ nên trở về nhà. Hai hôm sau Trung lên cơn sốt nặng, người gầy yếu chỉ còn da bọc xương (Trung cao 1m72 chỉ còn có 28Kg). Gia đình chở Trung lên bệnh biện Nguyễn Văn Học (Gia Định) lúc chiều. Các bác sĩ khám cho Trung, lúc ấy Trung đã hôn mê nằm như người gần chết. Bác sĩ thử tủy cột sống, Trung không còn tủy nữa . Các bác sĩ cho biết Trung không thể nào sống được tới 12 giờ đêm, và khuyên gia đình nên chuẩn bị mai táng. Hôm đó nhằm ngày thứ bảy. Gia đình tôi đã có vài đứa con tin Chúa (2 con gái Nguyễn thị Ngọc Thu, Nguyễn thị Thanh Loan , và Nguyễn thị Minh Trang là vợ Trung).

Tối hôm ấy, chúng nó đi nhóm nhà thờ Tin Lành Trần Cao Vân và xin Mục Sư Hồ Hiếu Hạ dâng lời cầu nguyện xin Chúa chữa bệnh cho Trung. Cả Hội Thánh cầu nguyện. Tan buổi nhóm, Mục sư Hạ và một số thanh niên đến nhà chúng tôi cầu nguyện cho Trung đến 11 giờ đêm. Nhưng vợ tôi vẫn chuẩn bị mọi việc để mai táng Trung. Ngày hôm sau, trời vừa mờ sáng, Ngọc Thu đã đến bệnh viện. Vì có lời dặn của bác sĩ hôm trước, nên Thu đi thẳng xuống nhà xác, không có xác Trung ở đây. Thu hơi mừng, đi gấp lên phòng bệnh chổ Trung nằm, vừa đi vừa cầu nguyện Chúa. Đến nơi Thu rất đổi ngạc nhiên thấy Trung đã tỉnh táo, đòi ăn cháo. Các bác sĩ cũng ngạc nhiên nói chỉ có phép lạ Trung mới sống được như thế. Sau một tuần nằm điều trị ở bệnh viện, Trung hầu như hồi phục và được xuất viện.

Chúa chữa bệnh phổi cho Trung

Về nhà được ít lâu, Trung bị bệnh lại, đó là bệnh phổi tái phát, vì năm 1973 lúc Trung còn học tại trường Hạ Sĩ quan Nha Trang, có lần đã nằm viện giải phẩu lấy mủ ở phổi. Ngọc Thu đưa Trung vào bệnh viện Hồng Bàng trong Chợ Lớn trị lao. Nơi đây sau khi chụp hình phổi, thử máu, thử đàm bác sĩ cho biết Trung đã bị lủng phổi rất nặng, phải chịu nằm viện và cách ly với vợ con. Tạm thời Trung phải trở về nhà đợi một tuần vì bệnh viện chưa có chổ nằm. Cả gia đình cầu nguyện Chúa thương xót chữa lành cho Trung một lần nữa. Tuần sau, Trung trở lại bệnh viện để làm thủ tục nhập viện. Bác sĩ cho chụp hình trở lại. Rất kỳ lạ là hai lá phổi đều tốt hoàn toàn. Các kết quả khác đều cho kết quả tốt. Các bác sĩ đều ngạc nhiên về trường hợp nầy. Một lần nữa Đức Chúa trời đã chữa lành cho Trung, để qua đó cả gia đình đều đến với Ngài. Halêlugia, cảm tạ Chúa!

Ghi chú: sau sự việc nầy vợ Trung là Minh Trang được người cô ở Pháp giúp đở mua nhà ở riêng và làm ăn phát đạt. Hiện vợ chồng Trung có đứa con gái xinh đẹp và rất hạnh phúc. Nguyền xin Chúa ban ơn gìn giử gia đình Trung để chúng nó đứng vững trong đức tin mà theo Ngài.

Chúa chữa lành bệnh khó cho vợ tôi

Đầu năm 1983, vợ tôi bị bệnh tiểu đường, nước tiểu trắng đục như vôi. Nhà tôi nhờ bác sĩ Nguyễn Sào Trung chữa trị. Bệnh không thuyên giảm. Bác sĩ Trung đề nghị vợ tôi đi xét nghiệm và hội chẩn của các bác sĩ. Thạc sĩ Ngô Gia Hy cho biết vợ tôi bị một chứng bệnh kỳ lạ, hàng triệu người bệnh mới có trường hợp như vậy. Có một loại giun chỉ ở trong thận, dùng thuốc không thể trục chúng ra được, mà giải phẩu mới mong cứu sống vợ tôi. Nhưng giải phẫu cũng không chắc thành công vì bệnh viện thiếu phương tiện. Hơn nữa, vợ tôi sức khoẻ sa sút khó có thể chịu nổi cuộc giải phẩu kéo dài những 7 tiếng đồng hồ. Thạc sĩ Ngô Gia Hy đề nghị vợ tôi xin đi nước ngoài để chữa trị mới có hy vọng được cứu sống. Đề nghị nầy thực khó thực hiện vì gia đình không có tiền, ngoài ra thủ tục xin xuất ngoại chữa bệnh cũng khó khăn. Trong cảnh tuyệt vọng, gia đình tôi chỉ còn có một con đường là mọi người hết lòng cầu nguyện, nài xin Chúa thương xót vợ tôi. Lúc nầy Hội Thánh Trần Cao Vân đã bị nhà nước tịch thu và ngưng hoạt động, còn Mục sư Hồ Hiếu Hạ và các tôi tớ Chúa ở đây đã bị bắt giữ. Gia đình chuyển qua sinh hoạt tại một nhà thờ Tin Lành cách nhà chúng tôi vài trăm thước. Mục sư Lê Quốc Chánh, Chủ tọa Hội Thánh, đặt tay lên người vợ tôi cầu nguyện xin Chúa chữa lành cho. Vợ tôi kiêng ăn cầu nguyện. Cả gia đình cũng hết lòng cầu nguyện. Vài ngày sau, vợ tôi đi ngoài và phát hiện một con giun đủa lớn kéo theo một chùm giun nhỏ cứ theo ra ngoài. Vợ tôi lấy cả đám giun đem đến bệnh viện Bình Dân xét nghiệm. Thạc sĩ Ngô Gia Hy xác nhận đây chính là giun chỉ ở thận của vợ tôi. Ông rất ngạc nhiên không hiểu tại sao giun lại theo đường tiêu hoá ra ngoài. Chúa cho phép bệnh tật xảy ra, thì cũng có cách chữa lành bệnh. Không việc gì Chúa không làm được vì Ngài là Đấng Toàn Năng, Toàn Tri. Halelugia, cảm tạ Chúa.

Chúa mở đường cho tôi đến với Ngài

Đầu năm 1979 do tình hình chiến sự bộc phát ở biên giới Tây Bắc Việt Nam do Trung Quốc gây ra nên các trại cải tạo ở gần biên giới phía Bắc được di tản đưa về nhập với các trại phía Nam xa biên giới. Tập thể tướng lãnh chúng tôi đang ở trại Hà Tây (cách Hà Nội 25Km về phía Tây) cũng được phát tán qua các trại khác. Tôi và các tướng Lê Minh Đạo, Lý Tòng Bá và Phạm Ngọc Sang được chuyển về trại Nam Hà (Phía Tây Phủ Lý 30Km). Đến giữa tháng 04 năm 1979, thình lình tôi được lệnh tha cùng một lúc với bảy anh em khác ở trại. Anh em bàn tán xôn xao cho rằng tôi được lệnh tha là do nhu cầu chính trị, để tuyên truyền cho chính sách khoan hồng nhân đạo của chính phủ. Rồi sau đó tôi được đưa về trại Hà Tây. Nơi đây cũng có có anh em khác từ các trại cải tạo ở Thanh Hoá đưa về. Tất cả chúng tôi là 13 người, được hưởng chế độ ăn uống bồi dưỡng và được đi tham quan Hà Nội, có vẻ như sắp được cho về với gia đình. Thủ tục nầy được áp dụng từ trước đến nay như một thông lệ. Sau hơn một tuần lễ sống trong tâm trạng hồ hởi, phấn khởi, chúng tôi được lệnh tập trung lên phòng họp của trại để nghe cấp trên nói chuyện. Chúng tôi mừng hụt vì không phải được thả về mà để nghe động viên giải tinh thần buộc đi vào Thanh Hoá nghiên cứu thành lập một nông trường cho Bộ Nội Vụ (Cục cải tạo). Trước vẻ mặt tiu nghỉu của chúng tôi, trại hứa hẹn chỉ đi vài tháng thôi “rồi cho các anh về”. Về sau tôi nghe các anh em kể lại: khi chúng tôi vào Thanh Hoá, và nói rằng tôi được cử làm giám đốc nông trường ở Thanh Hoá, (tôi còn là tù nhân thì làm sao làm giám đốc được!). Tin nầy làm cho anh em phẫn nộ và có ác cảm với tôi. Đây là lần thứ hai tôi bị tai tiếng. Lần trước tai tiếng đã từng xảy ra khi miền Nam bị mất, ở đâu người ta cũng đồn tôi là Thượng tá Việt Cộng. Xin Chúa chứng giám và biện minh cho con. A-Men!

Tôi vào Thanh Lâm (Thanh Hoá) gần hai năm. Đến giữa năm 1981, tôi được trở về trại Hà Tây để bị giam chung với các tướng lãnh. Ai cũng chê tôi gầy và đen quá.

Trong hai năm 1980-1981, trại Thanh Lâm bị bão lụt tàn phá nhiều lần, thiên tai gây tốn kếm rất nhiều hoa màu, cây cối bị thiệt hại nhiều lần làm cho nông trường bị giải thể, các trại viên được chuyển về nam ở trại Hàm Tân. Thời gian ở Thanh Lâm, gia đình tôi chỉ gởi quà tiếp tế chớ không ra thăm nuôi vì đường đi khó khăn trắc trở. Về đến Hà Tây thì có người nhà tôi ra thăm (sui gia và con gái). Ngoài quà cáp, tôi còn nhận được một quyển Kinh Thánh toàn bộ. Tôi phải cất giấu mới đem được vào trại. Ở trang đầu quyễn Kinh Thánh, Mục sư Hồ Hiếu Hạ có ghi tặng tôi câu Kinh Thánh ở Thi Thiên 119:105: ” Lời Chúa là ngọn đèn cho chân bác … là ánh sáng cho đường lối bác … … ”

Lúc bấy giờ Chúa đã làm cho tôi hai việc: (1) Chúa trang bị cho tôi hành trang tâm linh để cho tôi để cho tôi đọc hàng ngày dọn mình đến với Chúa. (2) Chúa an bài sắp xếp cho tôi ở chung với một số con cái Chúa.

Thật lạ lùng khi tôi nghĩ ra điều nầy. Tôi được giam ở buồng 4 có cửa thông qua buồng 3, nơi đây có ba Cơ Đốc Nhân là các tướng Lê Trung Trực, Đoàn Văn Quảng, và Nguyễn Chấn Á.

Chịu Báp Têm

Cuối tháng 3/1983, toàn trại Hà Tây được chuyển về trại Nam Hà. Các tướng lãnh được tập trung ở một dãy buồng lớn. Tôi rất vui mừng là trại nầy có giam Mục sư Tuyên uý Tin Lành và một Mục sư dân sự (Mục sư Điểu Huynh).

Ngày Chủ Nhựt 20 tháng 3 năm 1983 là ngày đáng ghi nhớ trong đời tôi. Sáng hôm ấy, sau khi tập hợp điểm danh trước buồng, đáng lẽ người cán bộ phụ trách khoá cửa vòng ngoài cửa buồng như thường lệ, thì anh ta lại quên khoá cửa. Chế độ giam giử cấp tướng là biệt giam. Chúng tôi không được ra ngoài liên hệ với buồng khác. Sau khi thấy được việc quên không khoá cửa, các anh em Cơ Đốc Nhân chúng tôi bàn với nhau nên lén lút thoát ra ngoài tìm chổ nhóm họp của các Mục sư. Sau khi đồng ý, chúng tôi hé cửa thoát ra ngoài hỏi thăm chổ nhóm của các Mục sư rồi đến ngay nơi ấy.

Chúng tôi vào buồng 11 leo lên trên (chổ ngủ phía dưới là bệ xi măng, còn phía trên là sạp ván). Đang nhóm họp tại đây có các Mục sư Dương Kỳ, Nguyễn Văn Nghi, Võ Xuân và một số tín hữu ở buồng khác đến. Chúng tôi tham gia thờ phượng Chúa và nghe Mục sư Dương Kỳ giảng. Xong bài giảng tôi ngỏ ý xin Mục sư Dương Kỳ làm phép Báp têm cho tôi vì nếu bỏ lỡ cơ hội nầy, khó có thể có dịp khác. Được Chúa cảm động Mục sư Dương Kỳ chấp thuận ngay. Thế là tôi được làm phép Báp têm bằng nước trong bi-đông tưới lên đầu. Tôi cảm động đến rơi lệ vì tình thương của Chúa đã cứu chuộc tôi, Chúa đã rữa sạch tội lỗi cho tôi. Kẻ từ hôm ấy, tôi được địa vị làm con cái Ngài và được gọi Ngài là Cha Thiên Thượng. Rõ ràng Ngài đã dọn đường cho tôi đến với Chúa theo cách Ngài muốn. Vì tôi là cựu Tổng trưởng Quốc phòng nên tôi nghỉ Chúa muốn chính Mục sư Dương Kỳ, Đại tá Tuyên Uý Trưởng ngành tuyên uý quân đội, làm lể Báp têm cho tôi. Nghi thức nầy được thực hiện ngay trong chốn lao tù, nơi tôi bị giam giữ.

(Còn tiếp)

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s